ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHU CẦU CỦA BẢO VỆ THỰC VẬT (BVTV) TRONG TƯƠNG LAI
Mỗi năm dân số thế giới tăng 75 triệu người. Theo đó, tổng dân số sẽ đạt đến ngưỡng hơn 9 tỉ người trước giữa năm 2050. Sự bùng nổ dân số quá nhanh dẫn đến nhiều hệ lụy như là bài toán về lương thực cung cấp đủ cho toàn bộ dân số để duy trì mức ổn định của cả thế giới.
Để đảm bảo lượng thực phẩm cung cấp đủ cho tất cả mọi người không thể không kể đến các cống hiến của ngành nghiên cứu các chế phẩm bảo vệ thực vật. Người nông dân thường bị mất phân nửa tổng sản phẩm thu hoạch vì bị côn trùng, sâu bọ, cỏ dại, và bệnh tật tấn công cây trồng. Các chế phẩm bảo vệ thực vật – bao gồm thuốc trừ sâu sinh học – làm giảm các thiệt hại cho mùa màng, và các chế phẩm kích thích tăng trưởng, tăng năng suất và cung cấp dinh dưỡng (bao gồm các chất kích thích sinh học và phân bón sinh học) cho cây trồng.
Để cải thiện mùa màng hiệu quả, những phương pháp bảo vệ thực vật đã và đang được cải thiện ngày một sáng tạo và mới mẻ như cải thiện các công thức sản xuất chế phẩm bảo vệ thực vật truyền thống (thuốc diệt cỏ, thuốc trừ côn trùng và thuốc diệt nấm) cũng như tăng tính hiệu suất trong phòng ngừa và tiêu diệt mầm hại tiết kiệm chi phí cho nông dân.
Tổng Quan Xu Hướng Bảo Vệ Thực Vật Trên Thế Giới:
Ước tính nhu cầu cho sản phẩm BVTV trên thị trường toàn cầu (BVTV truyền thống cũng như chế phẩm sinh học) sẽ thay đổi, tuy nhiên mọi người đều nhất trí rằng sản phẩm sinh học sẽ tăng từ khoảng 2% vào năm 2003 lên khoảng 8% (ước tính vượt mốc 82 tỉ USD) năm 2020 trên thị trường quốc tế.
Hiện tại, tỉ trọng tăng trưởng hàng năm của các sản phẩm chế phẩm BVTV sinh học trong giai đoạn này ước tính khoảng hơn 12% cao hơn 7% so kết quả tỉ trọng tổng quan.
Giá thành nông sản tụt giảm khiến cho nông dân chần chừ trong việc sử dụng BVTV cho cây trồng. Hơn nữa, giá dầu giảm góp phần làm giảm chi phí sản xuất, sự sụt giảm biên độ lợi nhuận của ethanol sinh học hạn chế sự quan tâm đầu tư của người trồng vào những sản phẩm này.
Xu Hướng BVTV Truyền Thống và Các Yếu Tố Dẫn Đầu:
Sự gia tăng sản xuất BVTV mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng ở các khu vực như Mỹ Latinh, Châu Á – Thái Bình Dương, và Châu Phi – có khả năng cung nhiều hơn cầu, tuy nhiên, hệ quả giá thành giảm.
Một số nguyên liệu hoạt tính mạnh như Dicamba, và 2,4-D đang được ưa chuộng, do những xu hướng trong công nghệ GMO (đặc điểm xếp chồng) và những cải thiện trong phát triển công thức (xử lý hạt giống).
Những yêu cầu quy định về BVTV chặt chẽ trong khối Liên Minh Châu Âu (EU) và Brazil hạn chế sự gia nhập và tăng chi phí đăng ký, trong khi sự sụt giảm trong số lượng các chất hoạt tính mạnh được đăng ký ở Liên Minh Châu Âu đang giảm dần các tiềm năng của các phương án chống lại BVTV.
Xu Hướng Phát Triển BVTV Sinh Học và Các Yếu Tố Dẫn Đầu:
Trong khối EU, những quy định yêu cầu về BVTV nghiêm ngặt, những cảnh giác của khách hàng về các mối nguy hại gây ra bởi BVTV hóa học, và sự giảm dần các BVTV tryền thống độc hại là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của BVTV sinh học tại thị trường nông dược phẩm.
Những công ty hóa chất nông nghiệp tiên phong mở rộng nghiên cứu và phát triển các sản phẩm BVTV sinh học và các danh mục đầu tư với sự chú trọng tập trung vào các hoạt chất sinh học được tạo ra từ các chu kỳ tự nhiên kết hợp với các hoạt chất trong chất diệt côn trùng và chất diệt nấm, các vi sinh vật (các vi sinh vật có lợi cải thiện sự hấp thụ dinh dưỡng và kháng bệnh cho cây trồng/hoa màu), các kỹ thuật sinh học phân tử (tác động vào gen) như CRISPR và RNAi.
Những buổi thử nghiệm tính hiệu quả mô tả dứt khoát rằng các phương án BVTV có nguồn gốc sinh học có thể đạt hiệu quả ít nhất ngang bằng như các sản phẩm BVTV truyền thống, khi được bón kèm với các yếu tố như sự phản ứng động học của cây trồng và sự phát triển áp lực của bệnh lên cây trồng.
Mặt khác, các bảng báo cáo về tính hiệu quả không nhất quán trên thực tế dẫn đến hoặc quá lạc quan hoặc nghi vấn từ những người đưa ra quyết định và những người nông dân. Từ quan điểm của người trồng/ người tiêu dùng, yếu tố cốt yếu quan trọng của BVTV sinh học nằm ở ứng dụng của chế phẩm vào đúng thời điểm cụ thể, ví dụ áp dụng trước thời gian thu hoạch.
Khoảng cách trước thu hoạch ngắn cho phép ứng dụng của các BVTV sinh học (đặc biệt là thuốc diệt nấm sinh học) ngay trước khi thu hoạch, ở những nơi có rất ít (nếu có) BVTV truyền thống có sẵn.
Những yếu tố kiềm hãm tiềm năng bao gồm các tỉ lệ chấp nhận thấp hiện tại của BVTV sinh học, cũng như những trông đợi vào các yêu cầu quy định nghiêm ngặt về các chế phẩm sinh học trong tương lai. Về sự độc hại, sự hình thành cơ chế phòng thủ ở cây trồng như tiết chất độc kích thích bởi BVTV sinh hoặc cần được nghiên cứu kỹ hơn.
Harry Teicher - AgriBusiness Global
(dịch bởi: Ánh Nguyễn)